Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến
ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm
1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2
nước.
Chiến tranh biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ quan
hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong khoảng một tháng với
thiệt hại về người và tài sản cho cả hai phía.
Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố hoàn thành
rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979 sau khi Chủ
tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí
lệnh Tổng động viên toàn dân và Trung Quốc chiếm đánh các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng,
và một số thị trấn vùng biên. Tuy nhiên, mục tiêu của Trung Quốc là
buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không
thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và
quan hệ căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới
còn tiếp diễn thêm 10 năm (xem Xung đột Việt–Trung 1979–1990). Hơn 13 năm
sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cất quân xâm
lược toàn tuyến biên giới phía Bắc năm 1979, buộc dân tộc ta một lần nữa phải
vùng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng tôi viết mấy dòng thay nén tâm hương
tưởng niệm hàng vạn đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống.
Nhìn thẳng vào sự thật lịch sử cuộc chiến này để trân quý
hơn hòa bình được xây dựng và vun bồi từ xương máu của bao thế hệ cha anh, cũng
là để giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, lòng tri ân các thế hệ đi trước.
Về đối nội, việc đánh giá đúng cuộc chiến tranh vệ
quốc, ghi nhớ, tri ân, tôn vinh 4 vạn liệt sĩ cùng đồng bào đã ngã xuống là để
yên lòng dân, những người đang sống. Lơ là việc này là có tội.
Về đối ngoại, việc đánh giá đúng
bản chất, nguyên nhân và rút ra bài học từ cuộc chiến hoàn toàn không có nghĩa
là kích động hận thù dân tộc hay chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mà để
tránh lặp lại điều này trong tương lai.
Đánh giá một cách khách quan, thẳng thắn và cầu
thị sự kiện lịch sử này từ cả hai phía là cách tốt nhất để góp phần hiện thực
hóa phương châm hợp tác giữa 2 Đảng, 2 nước: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.
Bởi quá khứ có thể gác lại sau những đánh giá đúng
mực, chứ không phải khép lại, càng không thể né tránh hay chôn vùi mà mong có
một tương lai tốt đẹp. Cần phải nói cho rõ trong cuộc chiến này ai là kẻ phi
nghĩa, ai là người chính nghĩa.
Việc Trung Quốc cất quân xâm lược toàn tuyến biên giới
Việt Nam tháng Hai năm 1979 buộc dân tộc ta phải cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc là một sự thật, chính Trung Quốc phải rút ra bài học cho hiện tại và tương
lai.
Việt Nam không bao giờ gây hấn, luôn luôn mong muốn
chung sống hòa bình với các quốc gia khác, nhưng dân tộc Việt Nam cũng không
lùi bước trước bất cứ kẻ thù nào lăm le thôn tính bờ cõi của cha ông.
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm
1979, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ
Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng
60 km2 lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát
trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn,
quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá
trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị
trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và Trung Quốc
nối lại đàm phán về vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán Việt – Trung lần ba diễn ra
vào năm 1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất phía Việt Nam
cho rằng, trước hết cần vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để giải quyết
những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra phương án ba điểm để giải quyết vấn đề
biên giới: chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên giới; khôi phục giao thông,
vận tải bình thường trên "cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử mà các
Hiệp định Trung - Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập". Phía Trung Quốc
kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của
mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh
thổ trên "cơ sở những công ước Trung - Pháp" chứ không phải trên cơ
sở đường ranh giới thực tế do các Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi
Việt Nam thừa nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận
không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc"; Việt Nam phải rút quân ra
khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề
Campuchia. Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam nhận lại những người Hoa đã ra đi.
Trong quan hệ với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối
quân sự nào chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các
căn cứ các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm
kiếm bá quyền ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào" làm điều kiện để tiến
hành thương lượng.
Vòng đàm phán thứ hai được tổ
chức tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979. Đoàn đại biểu Việt Nam đề nghị hai bên cam
kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên
lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ
trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên
không, trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt
Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba
nội dung chính: Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm dứt
ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không dùng vũ lực để
"trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; không can thiệp vào
quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác;
không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa bình, độc lập dân
tộc. Trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ trích Việt Nam về việc
"buộc" Trung Quốc phải thực hiện "chiến tranh tự vệ", đề
cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập trường tại khu vực,
không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên giới. Đầu năm 1980, Trung Quốc
đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi
công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba, nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm
1979-1982, Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung
Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa
hai nước được cải thiện, cuộc chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các
phương tiện truyền thông đại chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa
lịch sử ở Trung Quốc và một cách hạn chế tại sách giáo khoa của Việt Nam.
Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển
tập bài hát không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về
cuộc chiến bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến
không muốn nhắc đến nó. Ở nước ta, một số ca khúc có nội dung về cuộc
chiến, ví dụ "Chiến đấu vì độc lập tự do"
của Phạm Tuyên, không còn được lưu hành trên các
phương tiện truyền thông chính thống, đó là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam
và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước. Chính phủ
Việt Nam để ý chặt chẽ các nội dung báo chí liên quan đến quan hệ Việt -
Trung, và báo chí hầu như không nhắc đến cuộc chiến. Theo giải thích của
ông Dương Danh Dy, cựu Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, thì
Việt Nam "không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì
chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên".
Khi được hỏi về cuộc chiến từ 30 năm trước, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao
Trung Quốc nói rằng từ nhiều năm trước lãnh đạo hai nước đã "thỏa thuận
gác lại quá khứ và mở ra tương lai". Năm 2014, nhân kỷ niệm
35 năm Chiến tranh biên giới Việt-Trung, nhiều báo tại Việt Nam có bài viết về
đề tài này.
Chúng tôi cần nhấn mạnh rằng, bảo vệ hòa bình, hợp tác
và hữu nghị là mong muốn, nguyện vọng chung của nhân dân hai nước Việt Nam và
Trung Quốc, rút bài học để tránh chiến tranh không có nghĩa là cầu hòa.
Do đó, tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới
tương lai chỉ có ý nghĩa thực tiễn, lâu dài nếu như các sự kiện lịch sử, các
khúc quanh trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc được hai Đảng, hai Nhà
nước nói thẳng, nói thật trên tinh thần xây dựng.
Nếu ngày nay mà để xảy ra chiến tranh, thì chắc chắn người
hưởng lợi không phải là Trung Quốc, mà là các đối thủ của Trung Quốc trên vũ
đài chính trị toàn cầu cũng như khu vực.
Thiết nghĩ Trung Quốc cần phải ý thức rõ điều này
trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực siêu cường ngày càng phức tạp.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc càng phải nghiêm túc xây
dựng tình hữu nghị với các quốc gia trong khu vực trên cơ sở tôn trọng lẫn
nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác và hữu nghị thì Việt Nam được và Trung Quốc
cũng được, xung đột hay chiến tranh thì cả hai đều suy yếu. Khi đó cái thế và
lực của Trung Quốc trên trường quốc tế sẽ không còn được như hiện tại.
Thành Huyến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét