Gần đây, trên một số website, blog Dân làm báo, một số
đối tượng chẳng biết lấy đâu ra “sử liệu” để nhào nặn rồi kết luận một cách hết
sức hồ đồ, thô thiển rằng: Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước của quân và dân ta là “không cần thiết”, là “có thể tránh khỏi”; hay, đó
là “cuộc nội chiến giữa một bên là Chính quyền Sài Gòn, được Mỹ và một số nước
phương Tây hậu thuẫn và một bên là Chính quyền Hà Nội, được Liên Xô, Trung Quốc
và nhiều nước XHCN giúp đỡ”, v.v..
Cần khẳng định ngay rằng, đây là luận điệu xuyên tạc, phủ nhận
sự thật lịch sử hết sức lố bịch. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta đã được thế giới, kể cả những chính khách, tướng lĩnh Mỹ từng trực tiếp
tham gia ghi nhận như một biểu tượng của tinh thần quả cảm, không chịu khuất phục
của phẩm giá con người Việt Nam.
Để xâm lược Việt Nam Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hủy
diệt hết sức tàn bạo. Mỹ đã biến Việt Nam thành đất nước bị ném bom nhiều nhất
trên thế giới (số lượng bom Mỹ ném xuống Việt Nam là trên 7,8 triệu tấn, gấp 3
lần số bom sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ 2; tính bình quân mỗi người
dân Việt Nam phải chịu đựng trên dưới 250 kg bom của Mỹ). Mỹ cũng rải xuống miền
Nam Việt Nam trên 19 triệu ga-lông (khoảng 85 triệu lít) chất độc hóa học (chủ
yếu là chất diệt cỏ đi-ô-xin, làm hơn một nửa diện tích rừng của Việt Nam bị
thiêu rụi và di chứng của chất độc này đến nay vẫn còn hàng vạn người dân Việt
Nam đang và tiếp tục phải gánh chịu)… Dư luận, lương tri nhân loại tiến bộ trên
thế giới lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là phi nghĩa, vô nhân đạo;
coi tội ác mà Mỹ gây ra đối với nhân dân Việt Nam là tội ác tày trời. Trước những
dã tâm xâm lược và tội ác tày trời của đế quốc Mỹ, dân tộc Việt Nam - một dân tộc
vốn yêu chuộng hòa bình, nhưng sẵn sàng “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” đã lại phải một lần nữa đứng lên
cầm súng bảo vệ dân tộc mình. Vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung,
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng là sứ mệnh cao cả mà lịch sử giao
phó cho Đảng và nhân dân ta.
Cùng với luận điệu trên, việc coi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta là cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam - Bắc
cũng là luận điệu xuyên tạc lịch sử không thể chấp nhận được. Theo nhiều báo
chí Mỹ, chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam chính thức bắt đầu từ những năm cuối thập
niên 40, thế kỷ XX, khi Mỹ viện trợ quân sự cho Pháp trong cuộc chiến chống Việt
Minh và kết thúc ngày 30-4-1975, khi mà quân và dân Việt Nam tiến hành chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước. Trong
suốt cuộc chiến tranh đó, Mỹ đã sử dụng 4 chiến lược: “Chiến tranh ngăn chặn”,
“Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, nhưng
đều thất bại. Chiến lược “Chiến tranh ngăn chặn” ở Việt Nam là một bộ phận của
“Chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu” của Mỹ. Chiến lược này
được đặc trưng bởi công thức “viện trợ Mỹ, quân viễn chinh Pháp, chính quyền bản
địa” với mục tiêu là giúp Pháp đánh bại cộng sản Việt Nam, rồi từng bước Mỹ
thay chân Pháp chiếm đóng Việt Nam. Với quyết tâm xâm lược Việt Nam và Đông
Dương, Mỹ tiến hành cái gọi là chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” ở Việt
Nam. Tuy nhiên, những thất bại liên tiếp trên chiến trường của QĐVNCH đã làm
phá sản “Chiến tranh đặc biệt”, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân đội Mỹ vào tham chiến ở Việt Nam. Trong chiến
lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ tiến hành 2 cuộc chiến tranh: Dùng không quân, hải
quân đánh phá miền Bắc Việt Nam (từ vĩ tuyến 17 trở ra) và sử dụng không quân,
bộ binh tiến hành chiến tranh chống Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, với mục
đích là “giết chết những gì động đậy, phá sập những gì bất động” để đẩy Việt
Nam vào “thời kỳ đồ đá”. Mỹ đã huy động tới hơn nửa triệu quân, cùng hàng vạn
quân đồng minh, sử dụng tất cả những vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, kể
cả vũ khí sinh học, hóa học, nhưng cũng không thể khuất phục được quân và dân
Việt Nam và năm 1973 buộc phải ký Hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân về nước.
Song, với bản chất không thay đổi, Mỹ tiếp tục đổ tiền, vũ khí, “hà hơi tiếp sức”
cho Chính quyền “bù nhìn” Sài Gòn và QĐVNCH thực hiện cái gọi là chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, hòng cứu vãn thất bại, tiếp tục mưu đồ xâm lược Việt Nam.
Năm 2005, trả lời phỏng vấn của báo chí Việt Nam về vai trò của Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam, Cựu Phó Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đã thừa
nhận: "Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm "kép nhất".
Vì vậy, về thực chất đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những
kẻ đánh thuê". Cựu Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu,
trong hồi ký về những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa, đã chua xót
thừa nhận: “Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một
ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời Dinh Độc lập”…
Còn rất nhiều, rất nhiều vấn đề có thể
trích dẫn, nhưng thiết nghĩ bấy nhiêu đó cũng đủ để phản bác những luận điệu
xuyên tạc, bóp méo lịch sử với mưu đồ xấu: Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, công lao to lớn, sự hy sinh vì chính nghĩa của quân và dân ta.
Mưu đồ đó sẽ nhanh chóng bị thất bại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét