Tháng 2/1979, Bộ Quốc phòng lệnh cho Bộ Tư lệnh Đặc công điều
động Tiểu đoàn đặc công 27 và Tiểu đoàn 198 trở về nước nhận nhiệm vụ mới. Đồng
thời Bộ điều động Tiểu đoàn đặc công 45 phối thuộc cho Bộ Tư lệnh Quân khu 1
tham gia chiến đấu.
Tung lực lượng đặc công vào trận
Trung Quốc mở cuộc tấn công vào toàn tuyến biên giới phía Bắc
của nước ta vào đúng lúc phần lớn các quân đoàn dự bị chiến lược đang còn phải
chiến đấu với quân Khmer Đỏ ở chiến trường Campuchia. Các đơn vị của ta tại
biên giới mặc dù dũng cảm nhưng do bị tiến công bất ngờ và tương quan lực lượng
chênh lệch nên phải chiến đấu trong những điều kiện hết sức bất lợi.
Để tăng cường sức mạnh cho mặt trận biên giới, Bộ Quốc phòng
đã khẩn trương huy động lực lượng của tuyến sau đưa lên chi viện.
Ngày 18/2, Quân khu 3 cho Sư đoàn bộ binh 327 (gồm Trung
đoàn bộ binh 42, 75, 540 và Trung đoàn pháo binh 120) từ Quảng Ninh lên tăng cường
cho Quân khu 1. Tiếp đó ngày 19/2, Quân khu 4 gấp rút tổ chức cho Sư đoàn bộ
binh 337 (gồm Trung đoàn bộ binh 4, 52, 92 và Trung đoàn pháo binh 108) hành
quân bằng cả tàu hỏa và xe vận tải từ Nghệ An ra. Ngày 25/2 các đơn vị này đều
được bổ sung cho điểm nóng nhất lúc này là mặt trận Lạng Sơn và sau đó nằm
trong đội hình Quân đoàn 5 – Binh đoàn Chi Lăng.
Lạng Sơn được Quân khu 1 tăng cường Trung đoàn 197 Bắc Thái
cho hướng thị xã và Trung đoàn 196 Hà Bắc cho hướng Đình Lập. Sau đó Bộ Quốc
phòng còn tiếp tục bổ sung thêm Trung đoàn pháo phản lực 204, Trung đoàn đặc
công 198, Trung đoàn 98 Sư đoàn công binh 473, Lữ đoàn công binh 229 (đoàn Sông
Đà), đơn vị súng phun lửa của Trung đoàn phòng hóa 86…
Hướng Cao Bằng được tăng cường Trung
đoàn 183 Hải Hưng, Tiểu đoàn đặc công 45, tiểu đoàn pháo tầm xa 122mm của Lữ
đoàn pháo binh 675, tiểu đoàn tên lửa chống tăng B72, Trung đoàn 38 Sư đoàn
công binh 473, Tiểu đoàn 126, 127 bộ đội địa phương Bắc Thái cùng một số tiểu
đoàn tự vệ của nhà máy gang thép Thái Nguyên, công ty xây lắp luyện kim, công
ty xây lắp cơ khí... Ngoài ra Quân khu 1 cho thành lập thêm Sư đoàn bộ binh 311
trên cơ sở Trung đoàn 38 Sư đoàn 473.
Trận phục kích thắng lợi giòn giã của Tiểu đoàn đặc công 45
Tháng 2/1979, BQP lệnh cho Bộ Tư lệnh Đặc
công (BTLĐC) điều động Tiểu đoàn ĐC45 phối thuộc cho BTL Quân khu 1 tham gia
chiến đấu. Hành quân từ đêm 17/2 đến 22 giờ ngày 19/2, tiểu đoàn ĐC 45 đã đến
được vị trí tập kết.
5giờ sáng ngày 20/2, tất cả cán bộ, chiến sỹ của tiểu đoàn
đã vào vị trí sẵn sàng, triển khai đào hầm hào, công sự chiến đấu. Trong đợt 1,
từ ngày 20/2 đến 4/3, tiểu đoàn thực hiện đánh phòng ngự chốt giữ mục tiêu kết
hợp với phản kích. Đợt hoạt động thứ 2 của tiểu đoàn diễn ra từ ngày 9/3 đến
14/3. Tiểu đoàn tổ chức đi trinh sát 4 điểm, đánh 2 trận, 1 trận phục kích, 1
trận tập kích.
Ngày 10/3/1979, tiểu đoàn tổ chức phục kích nhằm tiêu diệt
đoàn xe cơ giới của đối phương trên quốc lộ 3. Lực lượng luồn sâu của tiểu đoàn
có 3 mũi phối hợp với dân quân du kích địa phương bí mật áp sát phục kích địch ở
khu vực đồi Nà Cay. Mũi 1 có 20 chiến sỹ do đồng chí Đào Văn Quân chỉ huy trưởng,
đồng chí Tường Duy Chính là chỉ huy phó. Mũi 2 có 19 chiến sỹ là mũi phụ. Mũi 3
là bộ phận cối 82mm do anh Dương chỉ huy có nhiệm vụ bắn kiềm chế địch, đề
phòng chúng phản ứng vào đội hình của đơn vị.
Sau 2 đêm hành quân đến bản Nà Toòng
thì đơn vị được lệnh dừng lại để trinh sát. Có 3 dân quân khu Thanh Sơn là Phan
Thị Hoa, Lã Thị Sự và Vương Văn Ngô được điều đến dẫn đường cho đơn vị. Tất cả
được lệnh đi sâu vào khu chiến, nơi địch đóng dày đặc trên các đồi Thiên Văn,
Pháo Đài... Riêng ở đồi Thiên Văn có tới 1 trung đoàn, hàng ngày chúng canh gác
trên đoạn đường ra vào cửa ngõ thị xã.
Nhiệm vụ của tiểu đoàn ĐC 45 là phải đánh nhanh rồi tản
nhanh, nếu không sẽ bị hãm trong vòng vây của địch.
Trời vừa sáng thì đơn vị cũng đào xong công sự và địch bắt đầu
xuất hiện. Lúc đầu chỉ là 1 chiếc xe tải từ Tài Hồ Xìn chạy tới. Đến chân đồi
Nà Cay, chiếc xe dừng lại để những tên lính đối phương bốc hàng rồi vào bản vơ
vét gà, vịt, lợn của dân ta. Đến 8 giờ 30 phút, 8 chiếc xe tải khác chứa đầy
hàng và xe đạp hỏng vẫn từ Tài Hồ Xìn chạy về thị xã. Nửa giờ sau có 17 chiếc
xe chở đầy quân địch và đạn tên lửa H12 từ thị xã Cao Bằng chạy qua trận địa.
Nguyễn Văn Thành, nguyên chiến sỹ Đại đội 1, tiểu đoàn ĐC45,
kể: Khi chiếc xe cuối cùng vào đúng vị trí khóa đuôi thì đồng chí Nguyễn Văn
Sinh được lệnh nổ súng. Trên vai anh, quả đạn B41 vọt ra khỏi nòng, cắm vào
thùng xe nổ tung. Tiếp đó là tiếng thủ pháo, lựu đạn nổ xen lẫn từng tràng liên
thanh của AK dồn dập đánh địch. Ở vị trí phía trước chặn đầu, chiến sỹ Hà Văn
Nhạc bắn 3 viên AK báng gấp tiêu diệt tên cầm lái. Chiếc xe thứ 2 bị Đại đội
phó Tường Duy Chính tiêu diệt bằng 1 quả B41.
Đạn tên lửa H12 trên xe bị đốt cháy nổ tung liên tiếp. Thế
là cả đội hình 14 chiếc còn lại với hơn 200 tên địch nằm gọn trong tầm súng và
biển lửa. Chỉ huy trưởng Đào Văn Quân chỉ huy các chiến sĩ Lợi, Công, Đề và anh
dân quân Vương Văn Ngô đánh tạt sườn. Đồng chí Quân bắn luôn 6 phát B41 vào 6
chiếc xe đang nối nhau, bóp còi inh ỏi để tìm đường tẩu thoát.
Địch từ trên xe nhảy xuống chỉ kịp giúi đầu xuống sàn xe hoặc
nằm rạp xuống 2 bên rãnh thoát nước. Từ trên cao, chiến sĩ ta chỉ việc bỏ lựu đạn,
thủ pháo, bắn AK xuống tiêu diệt hết quân địch”.
Trong lúc đơn vị đang tiêu diệt đoàn xe của đối phương thì
hàng trăm tên địch chốt trên các đồi Thiên Văn và Yên Ngựa nghe thấy tiếng súng
nổ đã bỏ súng, vội vã chạy lên đồi cao nhìn ngọn lửa đang bốc nghi ngút từ mặt
quốc lộ 3. Chớp thời cơ, trung đội trưởng cối 82 mm ra lệnh đánh. Hàng chục quả
đạn đã được tính toán kĩ lưỡng phần tử bắn nối đuôi nhau giội lửa xuống đầu địch,
tiêu diệt hơn 100 tên nữa.
Tất cả trận đánh chỉ diễn ra trên 20
phút. Khi bọn địch phản ứng thì đơn vị đã nhanh chóng theo 3 chiến sĩ dân quân
thọc qua bản Nà Cay, trở về vị trí tập kết.
Có thể nói trận đánh phục kích trên quốc
lộ 3 đã đạt hiệu suất cao, thắng lợi giòn giã. Tiểu đoàn ĐC 45 được tặng thưởng
Huân chương chiến công hạng Nhất; nhiều tập thể đại đội và cá nhận được tặng
thưởng huân chương và bằng khen.
Ngay sau trận thắng đó, tiểu đoàn ĐC45
tổ chức tiếp trận tập kích bí mật đối phương tại khu vực đường số 4. Từ ngày
15/3 đến ngày 17/3/1979, tiều đoàn tiếp tục bám trụ, đồng thời tổ chức lực lượng
truy kích đối phương trên đường rút chạy.
Tháng 6/1979, Bộ Quốc phòng điều động Trung đoàn đặc công
113 đang ở chiến trường Campuchia về nước làm lực lượng cơ động của Bộ. Tiểu
đoàn 45 đã sáp nhập vào Trung đoàn 113.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét