Từ ngày 15/8, hướng dẫn hỗ
trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo ở một số huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn
vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo có hiệu lực. Định mức hỗ trợ và giải ngân vốn
hỗ trợ với nhà xây mới 40 triệu đồng/hộ, sửa chữa nhà 20 triệu đồng/hộ từ ngân
sách trung ương với các nhóm đối tượng này.
Hỗ trợ trực tiếp đến từng hộ nghèo, hộ cận nghèo
Ngày 30/6, Bộ Xây dựng
ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BXD. Văn bản hướng dẫn việc xác định đối tượng,
nguyên tắc, tiêu chí, chất lượng và việc tổ chức triển khai thực hiện hỗ trợ
nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo được phê duyệt tại
Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh
sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai
đoạn 2021-2025. Hiệu lực áp dụng từ ngày 15/8/2022.
Một trong những nguyên tắc thực hiện là hỗ trợ trực tiếp đến
từng hộ nghèo, hộ cận nghèo. Ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo dân tộc thiểu số và hộ
nghèo có thành viên là người có công với cách mạng.
Đối tượng áp dụng gồm 2 nhóm.
Trước hết là hộ nghèo, hộ
cận nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025) trong danh sách hộ
nghèo, hộ cận nghèo do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý, đang cư trú trên địa bàn
huyện nghèo và là hộ độc lập có thời gian tách hộ đến khi Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (sau đây viết tắt là Chương
trình) có hiệu lực thi hành tối thiểu 3 năm.
Tiếp đó là đối tượng thụ hưởng hỗ trợ nhà ở không bao gồm
các hộ đã được hỗ trợ nhà ở thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển
kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030
và các chương trình, đề án, chính sách khác.
Định mức hỗ trợ nhà xây mới tới 40 triệu đồng/hộ
Thông tư nêu rõ, định mức hỗ trợ và giải ngân vốn hỗ trợ với
nhà xây mới 40 triệu đồng/hộ; sửa chữa nhà 20 triệu đồng/hộ từ ngân sách trung
ương.
Cơ chế quản lý, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí nguồn
ngân sách trung ương thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Về tiêu chí, hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ nhà ở thuộc
một trong các trường hợp dưới đây.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở thuộc loại
không bền chắc (trong ba kết cấu chính là nền - móng, khung - tường, mái thì có
ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
Diện tích nhà ở bình quân
đầu người của hộ nghèo, hộ cận nghèo nhỏ hơn 8m2.
Chưa được hỗ trợ nhà ở từ các chương trình, đề án, chính
sách hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội hoặc tổ chức xã hội
khác.
Sau khi được hỗ trợ xây mới hoặc sửa chữa, nhà ở phải bảo đảm
diện tích sử dụng tối thiểu 30m2, bảo đảm “3 cứng” (nền - móng cứng, khung - tường
cứng, mái cứng) và tuổi thọ căn nhà từ 20 năm trở lên.
Các bộ phận nền - móng,
khung - tường, mái của căn nhà phải được làm từ các loại vật liệu có chất lượng
tốt, không làm từ các loại vật liệu tạm, mau hỏng, dễ cháy.
Tùy điều kiện thực tế, các bộ phận nhà ở có thể làm bằng các
loại vật liệu có chất lượng tương đương có sẵn tại địa phương đáp ứng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm thời hạn sử dụng, Ủy ban nhân dân các tỉnh (hoặc ủy
quyền cho Sở Xây dựng) quy định chủng loại vật liệu địa phương cụ thể (nếu có),
báo cáo Bộ Xây dựng xem xét, quyết định.
Thông tư cũng nêu rõ quy định ưu tiên hỗ trợ trước cho các đối
tượng theo thứ tự dưới đây.
Thứ nhất, hộ nghèo dân tộc thiểu số.
Thứ hai, hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng.
Thứ ba, hộ nghèo, hộ cận
nghèo có thành viên thuộc đối tượng bảo trợ xã hội.
Thứ tư, hộ nghèo, hộ cận nghèo
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật).
Thứ năm, hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc vùng thường xuyên xảy ra thiên
tai.
Thứ sáu, các hộ nghèo, hộ cận
nghèo còn lại.
Đối với các hộ nghèo, hộ cận
nghèo có cùng mức độ ưu tiên, việc hỗ trợ được thực hiện theo thứ tự sau:
Hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhà ở
hư hỏng, dột nát (làm bằng các vật liệu nhanh hỏng, chất lượng thấp) có nguy cơ
sập đổ, không bảo đảm an toàn.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có
nhà ở (là hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có nhà ở riêng, hiện đang ở cùng bố mẹ
nhưng đã tách hộ, ở nhờ nhà của người khác, thuê nhà ở - trừ trường hợp được
thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo có đông
nhân khẩu.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban
nhân dân các cấp, tổ chức, cá nhân liên quan chịu trách nhiệm thi hành Thông tư
này. Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp
thời về Bộ Xây dựng để sửa đổi, bổ sung hoặc gửi Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận
nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016-2020 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho thấy, cả nước có 609.049 hộ
nghèo, chiếm tỷ lệ 2,23%.
Bên cạnh đó, tổng số hộ cận nghèo là 850.202 hộ, với tỷ lệ
là 3,11%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét