Thực tiễn cách mạng Việt Nam trước ngày 03 tháng 02
năm 1930 khi chưa có Đảng ra đời các cuộc cách mạng của nhân dân ta nổi lên tự
phát, nhỏ lẻ không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất do vậy đều dẫn đến thất
bại tiêu biểu như: Khởi nghĩa Trương Định
(1859 – 1864); Khởi nghĩa Nguyễn Trung
Trực (1861 – 1868); Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887); Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 –
1889); Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 – 1892);
Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896);
Khởi nghĩa
Yên Thế (1887 – 1913); Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917 – 1918);
Cuộc bạo
động Lạng Sơn (1921); Cuộc bạo động Yên Bái (1930)… ngay sau khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác tiêu biểu là thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 đã lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiếp đó đảng lãnh đạo chiến thắng Điện Biên Phủ
lừng lấy năm châu, trấn động địa cầu, có sức ảnh hưởng lớn đến cuộc giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới, tiếp đó phải kể đến thắng lợi của
cuộc tổng tiến công 30 tháng 4 giải phóng hoàn toàn miền Nan thống nhất đất
nước.
Ngay sau
ngày thông nhất đất nước Đảng ta đã tiếp tục lãnh đạo đất nước bước vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế đất nước. kể từ sau mở cửa
hội nhập năm 1986 đến nay nước ta đã thu được nhiều thành tựu vượt bậc trên tất
cả các lĩnh vực như:
Về tăng trưởng kinh tế,
trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn
thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua
gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng.
Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
Trong các năm tiếp theo,
do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng
nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã
chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền
kinh tế tăng nhanh.
Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Những nỗ lực đổi mới
trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó
đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Kim ngạch
xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015 tăng đến
18%/năm. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức
Qua 30 năm đổi mới, đất
nước cũng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 30 năm đổi
mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ
luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp
2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013 cơ bản đã tạo cơ sở
pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. 30 năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai
trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh
doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Những thành tựu trên đạt
được là do thành quả lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy không
có lý lẽ nào các đảng viên lại nghe theo lời lẽi kích động, lôi kéo của bọn
phản động để rồi xa rời Đảng xa rời con đường chân chính nhất, đúng đắn nhất,
con đường mà mang lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho toàn Đảng, toàn dân và
toàn dân tộc ta.
Chúng ta phải ra sức nêu
cao ngon cờ độc lập dân tộc, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước
ta phát triển mạnh mẽ hơn, hội nhập xâu rộng hơn, nâng cao vị thế của đất nước
trên trường quốc tế.
Văn Quyết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét