Trong tình hình các tổ chức Đảng
trong cả nước đang tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu
toàn quốc của lần thứ XII, các thế
lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu, bằng
nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, hòng gây nhiễu loạn về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện mưu đồ “giải trừ ý thức hệ”, làm cho Đảng tan rã về ý thức hệ, từ đó tan
rã về tổ chức, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ ta,
thì việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách hiện nay.
Để chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị
tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ
đoạn khác nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:
Một là, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ
XIX, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây
giờ nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học -
công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri
thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa,
chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị lỗi thời (!).
Đúng là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của
Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã
hội, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức
được những biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời
đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những
nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật
phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển
xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng
quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy
luật giá trị thặng dư, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội,
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...
Đứng
trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin
không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua,
song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bản chất khoa học và
cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn
luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài
người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có
giá trị
trường tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học
cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể
thực hiện được vai trò đó.
Hai là, có
quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ
nhận cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan
điểm trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận quan
trọng nhất, là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để
nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những
nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên
của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát
triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Như
vậy, về mặt lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó
cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh
và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận
định. Một số người nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt
Nam, có nguồn gốc Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai”, “ngoại
nhập”, không phù hợp với Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác -
Lê-nin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh
(!). Quan điểm đó nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực
tiếp và gián tiếp chính là nhằm phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đã có chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng ta xác định nền tảng tư
tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng
đắn, phù hợp, thể hiện mối quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ
phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ba là, có
quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do
sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học
thuyết” (!).
Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập
trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân
với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên
ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội
đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã
đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng,
tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một
số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa
bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những
nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác-
Lê-nin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là
nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với
bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung
Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành
tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có
đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế
lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn
bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự
sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường
xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để
tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét