Trong
thời gian qua, cùng với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công
nghệ, xã hội loài người đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với
một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại.
Lợi dụng vấn đề này,
một số phần tử lớn tiếng rêu rao rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất nhờ
việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ vào trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Theo đó, trong phương thức sản xuất tư bản ngày nay không
còn hiện tượng người bóc lột người, xã hội tư bản là xã hội tiến bộ nhất trong
lịch sự nhân loại mà loài người cần hướng đến.
Thực ra, những giọng điệu tuyên truyền
đó vẫn không có gì mới và xa lạ đối với chúng ta. Về bản chất chúng vẫn theo
những lối mòn cũ muốn phủ định giá trị vĩnh hằng của chủ nghĩa Mác - Lênin, và
tạo cảm giác mơ hồ cho những người cộng sản trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng.
Nhìn nhận về vấn đề
này, Đảng ta khi bàn về chủ nghĩa tư bản ngày nay, đã khẳng định “Hiện tại, chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư
bản.”[1] Những nhận định trên của Đảng ta được dựa trên một nền tảng vững chắc
là chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời xuất phát từ tình hình thực tiễn phát triển
của chủ nghĩa tư bản để Đảng đưa ra những đánh giá hết sức khoa học về chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay.
Các nhà kinh điển C.Mác
và Ăng ghen khi phân tích về chủ nghĩa tư bản đã chỉ ra: từ khi mới ra đời, chủ
nghĩa tư bản đã cho con người thấy tính ưu việt của nó. Theo C.Mác, Ăng ghen,
đó là một bước tiến vĩ đại về phía trước trên những con đường phát triển của xã
hội loài người. Nhưng chủ nghĩa tư bản không phải là hình thái xã hội vĩnh
hằng, khi nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa thì sẽ
bị hình thái xã hội thích ứng được với yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất mới thay thế. Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen,
nghiên cứu CNTB từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền,
Lênin đã chỉ ra bản chất kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Trên cơ sở nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền, Lênin còn khẳng định sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Theo cách nói của Lênin, hiện nay trong chủ
nghĩa tư bản khuynh hướng “phát triển vô cùng nhanh” nổi trội hơn so với khuynh
hướng ngừng trệ, thối nát vốn có của nó. Lênin cũng chỉ ra, chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước vẫn còn nhiều tiền năng phát triển, song đó là sự phát triển
trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản và tiềm năng phát triển đó không phải là vô
hạn[2]. Càng phát triển, mâu thuẫn càng sâu sắc phức tạp.
Trải qua quá trình phát
triển, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có những bước phát triển mới. Phương thức
sản xuất này vẫn tỏ ra vẫn còn sức sống nhất định, mâu thuẫn nội tại của chủ
nghĩa tư bản hiện không quyết liệt đến mức dẫn tới tình thế cách mạng. Bên cạnh
đó, chúng ta thật sự “chưa đánh giá hết khả năng co giãn của cơ cấu kinh tế tư
bản chủ nghĩa, cũng như tính linh hoạt của những người kinh doanh tư bản biết
di động, tiến thoái, đồng thời vẫn còn giữ được vị trí của họ”[3]. Thấy rõ được
những sự biến đổi mới của chủ nghĩa tư bản, Đảng ta đã nhận định “Hiện tại, chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển”. Vậy phải chăng những biến đổi mới,
những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với việc quay trở lại thời
kỳ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn đang phù hợp với lực lượng sản xuất
hiện đại? Câu hỏi này đụng đến một vấn đề lý luận khá phức tạp: mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dưới tư bản chủ nghĩa mang tính đặc thù,
khác với mâu thuẫn này trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
Nếu như dưới các chế độ trước chủ nghĩa tư bản, một khi quan hệ sản xuất không
còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó “ kìm hãm” sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Mặc dù không thuận lợi, song lực lượng sản xuất mới với công
nghệ mới vẫn ra đời trong lòng xã hội phong kiến nhưng chỉ phát triển đột biến,
bùng nổ sau khi nó phá tan quan hệ sản xuất cũ và kiến trúc thượng tầng cũ.
Dưới chủ nghĩa tư bản, khi đã mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
lực lượng sản xuất vẫn có thời kỳ phát triển bùng nổ, mặc dù phát triển xen kẽ
với khủng hoảng, trì trệ, phát triển dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội
chống lại bản thân sự phát triển như phân hóa giàu nghèo, phá hoại môi trường
sinh thái…Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính linh hoạt cao hơn nhiều so
với các quan hệ sản xuất trước đó. Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết
trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản “Giai cấp tư sản không
thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách
mạng hóa những quan hệ sản xuất. Trái lại đối với tất cả giai cấp công nghiệp
trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phương thức sản xuất cũ là điều kiện kiên
quyết cho sự tồn tại của họ. Sự đảo lộn liên tiếp của sản xuất, sự rung chuyển
không ngừng trong tất cả các quan hệ xã hội…làm cho thời đại tư sản khác với
tất cả các thời đại trước”[4]. Vì vậy, ngay khi đã mâu thuẫn sâu sắc với lực
lượng sản xuất nó vẫn chưa hết khả năng tự “co dãn”, tự điều chỉnh để thích
nghi với lực lượng sản xuất mới, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển trong thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, cho dù có
điều chỉnh như thế nào đi nữa, cho dù có khoác trên mình những “tấm áo choàng
lộng lẫy” như thế nào đi nữa thì bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề
thay đổi, đúng như nhận định của Đảng ta “về bản chất vẫn là một chế độ áp bức,
bóc lột và bất công”. Sự áp bức, bất công đó thông qua sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sự thống trị
đó không chỉ đóng khung trong từng quốc gia, dân tộc mà được quốc tế hóa hơn
bao giờ hết. Sự áp bức, bóc lột được che đậy dưới nhiều hình thức khác nhau và
ngày càng mang tính chất tinh vi hơn trước; hình thức bóc lột cũng luôn có sự
thay đổi dựa trên việc áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ. Sự bóc lột vượt khỏi biên giới quốc gia và được triển khai trên phạm vi
quốc tế thông qua nhiều hình thức.
Dù có điều chỉnh thích
nghi nhưng chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn không thể vượt qua khỏi mâu thuẫn vốn
có của nó. Những mâu thuẫn đó bản thân nó không thể giải quyết triệt để trong
khuôn khổ, trật tự tư bản chủ nghĩa, đó chính là“mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa”, mà theo đánh giá của Đảng ta “Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của
chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của
lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những
không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc”[5]. Mâu thuẫn đó được biểu
biện cụ thể ra là mâu thuẫn giữa sản xuất có khả năng vô hạn và tiêu dùng có
khả năng thanh toán bị hạn chế, giữa tư bản và người lao động làm thuê, giữa tư
bản và tư bản, trong một nước và trên phạm vi quốc tế, giữa các nước tư bản với
nhau, giữa các nước tư bản với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, các mâu
thuẫn mới cũng ngày càng thể hiện rõ nét đó là mâu thuẫn giữa sức sản xuất có
khả năng phát triển vô hạn với sự giới hạn của các nguồn tài nguyên và môi
trường, giữa nhu cầu nhất thể hóa và toàn cầu hóa với lợi ích của từng quốc gia
và của toàn bộ cộng đồng các nước, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu khi chuyển
đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Tính gay gắt của các mâu thuẫn
hiện nay thể hiện nổi bật ở những giới hạn mà chủ nghĩa tư bản đang vấp phải
trong cùng một lúc chưa từng thấy. Đó là, tài nguyên hạn chế trong khi lực
lượng sản xuất có khả năng phát triển vô hạn; guồng máy sản xuất có khả năng mở
rộng không ngừng trong khi khả năng thanh toán vẫn còn bị hạn chế; tốc độ tăng
năng suất lao động và tăng trưởng nói chung không thể cao và vẫn còn nguy cơ
thấp; bất bình đẳng xã hội gia tăng trên phạm vi quốc gia và quốc tế với nguy
cơ ngày càng trầm trọng; khủng hoảng kinh tế và tính không ổn định trên nhiều
lĩnh vực; những mặt trái trên các lĩnh vực văn hóa, đạo đức chính trị, tình
trạng bạo lực, tội phạm, xung đột sắc tộc tôn giáo có nguy cơ phát triển trầm
trọng, khó lường.
Những giới hạn không
thể vượt qua trên cho thấy, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn đang và sẽ tiếp tục
phải đổi mặt với những nguy cơ của khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị
thậm trí nguy cơ một cuộc khủng hoảng toàn diện mới có thể xuất hiện. Do vậy,
Đảng ta nhận định “Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”[6].
Như vậy có thể thấy rằng, chủ nghĩa tư bản hiện đại trong khi chưa phát triển
đến giai đoạn diệt vong gần kề nó đang tiếp tục tiến triển một cách khách quan
đến một xã hội khác cao hơn, bất chấp ý nguyện chủ quan của bất cứ lực lượng xã
hội nào và do đó trong lòng nó đang chín muồi dần không chỉ những tiền đề vật
chất, kỹ thuật mà cả những mầm mống, những yếu tố nhiều mặt, những điều kiện
ngày càng đầy đủ hơn cho sự ra đời xã hội mới sau chủ nghĩa tư bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét